Viêm loét dạ dày là một trong những tình trạng bệnh lý rất phổ biến, thường xảy ra ở nhiều người. Bệnh có thể xảy ra do nhiều nguyên nhân khác nhau, nếu không chẩn đoán sớm và điều trị kịp thời thì bệnh sẽ chuyển sang nặng gây nhiều biến chứng nguy hiểm. Bài viết hôm nay, bác sĩ Hồng Yến sẽ chia sẻ những kiến thức về tình trạng bệnh này.
Viêm loét dạ dày là tổn thương gây viêm và loét trên niêm mạc dạ dày. Những tổn thương này xảy ra khi lớp niêm mạc bảo vệ cuối cùng của dạ dày bị bào mòn làm cho lớp mô bên dưới bị lộ ra. Bệnh viêm loét dạ dày có thể gây ra tình trạng xuất huyết tiêu hóa nếu ổ loét lớn, chảy máu. Nếu bệnh nhân không được phát hiện biến chứng xuất huyết tiêu hóa để điều trị kịp thời thì người bệnh có thể tử vong do mất máu.
Viêm loét dạ dày gặp ở mọi lứa tuổi đặc biệt ở người già và chiếm 60% trong tổng số các trường hợp.
Viêm loét dạ dày xảy ra khi vi khuẩn HP xâm nhập vào dạ dày và lượng axit dạ dày bị dư thừa làm cho niêm mạc dạ dày bị tổn thương, lâu ngày gây viêm loét. Tùy vào vị trí tổn thương mà có tên gọi như viêm dạ dày tá tràng, viêm bờ cong nhỏ, loét dạ dày, viêm tâm vị…
Bệnh trải qua 2 giai đoạn:
Viêm loét dạ dày có thể xảy ra ở bất cứ ai, ở mọi lứa tuổi nhưng thường gặp ở nam giới, người ở độ tuổi từ 30 – 50 tuổi. Bởi lẽ nhóm người này thường chủ quan không chú ý đến việc bảo vệ sức khỏe của mình.
Theo các nghiên cứu gần đây thì axit dư thừa được cho là nguyên nhân chính gây ra bệnh viêm loét. Theo đó, việc điều trị bệnh chính là trung hòa và ức chế sự tiết axit dạ dày. Mặc dù axit vẫn được coi là cần thiết cho sự hình thành vết loét và sự ức chế của nó vẫn là phương pháp điều trị chính.
2 nguyên nhân gây viêm loét quan trọng nhất là nhiễm trùng dạ dày bởi một loại vi khuẩn( virus ) có tên là " Helicobacter pylori " ( H. pylori ) và việc sử dụng mãn tính thuốc chống viêm không steroid ( NSAIDs ), bao gồm cả aspirin .
Hút thuốc lá cũng là một nguyên nhân quan trọng gây loét cũng như làm tăng tỉ lệ thất bại trong việc chữa lành vết loét và gây ra các biến chứng nguy hiểm như chảy máu, tắc nghẽn và thủng dạ dày..
Nhiễm H. pylori rất phổ biến, ảnh hưởng đến hơn một tỷ người trên toàn thế giới. Theo một báo cáo mới nhất thì người ta ước tính rằng một nửa dân số Việt Nam trên 60 tuổi đã bị nhiễm H. pylori . Nhiễm khuẩn HP thường tồn tại trong nhiều năm, dẫn đến bệnh loét ở 10% đến 15% những người bị nhiễm bệnh.
Trước đây, H. pylori được tìm thấy ở hơn 80% bệnh nhân bị loét dạ dày và tá tràng. Với sự đánh giá ngày càng cao về mức độ nguy hiểm của khuẩn HP trong việc chẩn đoán và điều trị virus này thì tỷ lệ nhiễm H. pylori cũng như tỷ lệ loét do vi khuẩn gây ra đã giảm. Ước tính hiện tại chỉ có 20% các vết loét có liên quan đến vi khuẩn. Trong khi cơ chế mà H. pylori gây ra loét rất phức tạp, việc loại bỏ vi khuẩn bằng kháng sinh rõ ràng đã được chứng minh là chữa lành vết loét và ngăn ngừa sự tái phát của chúng.
NSAID là thuốc dùng để điều trị viêm khớp và các tình trạng viêm đau khác trong cơ thể. Aspirin, ibuprofen ( Advil , Motrin ), naproxen ( Aleve , Naprosyn ) và etodolac ( Lodine ) là một vài ví dụ về nhóm thuốc này. Prostaglandin là những chất do cơ thể sản xuất, rất quan trọng trong việc giúp niêm mạc thực quản, dạ dày và tá tràng chống lại sự phá hủy của dịch tiêu hóa có tính axit của dạ dày. NSAID gây loét bằng cách can thiệp vào việc sản xuất các tuyến tiền liệt trong dạ dày.
Hiện nay chưa có bằng chứng nào chứng minh rượu, cà phê, nước có ga, thực phẩm cay…đóng vai trò là nguyên nhân hình thành viêm loét. Tương tự, không có bằng chứng thuyết phục nào cho thấy rằng căng thẳng cuộc sống hoặc các loại tính cách góp phần gây ra bệnh loét.
Đây là một trong các dấu hiệu chính của bệnh viêm loét dạ dày. Nếu loét tá tràng thì cơn đau thường sẽ xuất hiện vào lúc đói hoặc là lúc sau ăn khoảng 2 - 3 tiếng, có thể đau vào lúc nửa đêm về sáng, lan ra sau lưng. Cơn đau xuất hiện âm ỉ, đau tức bụng hoặc đau quặn từng cơn. Bạn nên hạn chế ăn những món ăn chua, cay... khi đang đói.
Một số triệu chứng như đầy bụng, buồn nôn cũng là một trong những dấu hiệu thường xuyên của bệnh viêm loét dạ dày-tá tràng.
Cảm giác bị đầy bụng, khó tiêu là do dạ dày đã bị tổn thương, kéo theo hoạt động tiêu hóa chậm lại, khiến cho người bệnh thường cảm thấy chướng bụng, đầy hơi.
Mất ngủ hay giấc ngủ thường xuyên bị gián đoạn do bụng bị đầy hơi, bụng nặng cảm giác khó tiêu, hay do đau lúc bụng đói nửa về đêm sáng.
Đa số bệnh nhân khi bị viêm loét dạ dày-tá tràng thường có các triệu chứng này. Ợ hơi, hoặc ợ chua là những dấu hiệu rất hay gặp phải ở những bệnh nhân bị bệnh trong thời kỳ đầu.
Ợ nóng rát thượng vị thường xuất hiện ở bệnh nhân có trào ngược dạ dày thực quản hơn.
Một dấu hiệu của viêm loét dạ dày-tá tràng nữa đó là có triệu chứng bị tiêu chảy hoặc táo bón. Do việc tiêu hóa không ổn định, người bệnh viêm loét dạ dày-tá tràng thường bị sút cân. Nhưng ngược lại, vì triệu chứng đau thường xảy ra lúc bụng đói nên bệnh nhân hay ăn nhiều hơn, cũng có thể gây tăng cân nhanh.
Tuy nhiên, các triệu chứng kể trên chỉ có mang tính chất gợi ý chứ không thể chẩn đoán một cách chính xác. Người bệnh nên đến bệnh viện để được tiến hành các thủ thuật chuyên khoa, xét nghiệm kiểm tra, và đặc biệt là tiến hành nội soi dạ dày-tá tràng. Phương thức nội soi sẽ giúp chúng ta biết được chính xác vị trí, mức độ tổn thương của bệnh viêm loét dạ dày-tá tràng, hay có nhiễm vi khuẩn HP hay không. Từ đó, bác sĩ có thể đưa ra được chỉ định và phác đồ điều trị phù hợp, hiệu quả nhất cho người bệnh viêm loét dạ dày-tá tràng.
Bệnh viêm loét dạ dày-tá tràng nếu không được điều trị ngay sẽ trở thành mạn tính và khó có thể khỏi dứt điểm. Căn bệnh này có thể dẫn đến các biến chứng có ảnh hưởng đến sức khỏe nghiêm trọng như:
Các biến chứng kể trên đều rất nghiêm trọng và có thể cần phẫu thuật. Bạn nên đến bệnh viện gần nhất để khám và điều trị khẩn.
Thủ thuật nội soi: Việc nội soi dạ dày sẽ giúp bác sĩ quan sát một cách rõ ràng và chi tiết đồng thời đánh giá chính xác mức độ bệnh. Từ đó cũng tiên lượng khả năng điều trị vì có những ổ loét đơn giản có thể điều trị nội khoa nhưng những ổ loét xấu, xù xì, lồi lõm, xơ chai có thể là ung thư dạ dày thể loét. Khi đó bác sĩ nội soi tiêu hóa sẽ sinh thiết bờ ổ loét để chẩn đoán ung thư dạ dày sớm
Xét nghiệm máu, phân: Giúp đánh giá tình trạng thiếu máu, đặc biệt trong trường hợp viêm loét dạ dày có biến chứng xuất huyết tiêu hóa, nồng độ các enzym niêm mạc dạ dày và tình trạng hồng cầu trong phân.
Khi mắc phải triệu chứng này và còn phân vân liệu bệnh có tự khỏi được không thì hãy tham khảo những thông tin sau:
Theo các bác sĩ, bệnh có thể khỏi hoàn toàn dù rất khó. Lý do bởi:
Vì vậy, khi có triệu chứng đau liên tục, mức độ càng ngày càng gia tăng, gây cản trở đến cuộc sống,… hãy tìm đến các cơ sở y tế uy tín, khám nội soi và thực hiện các phương pháp được khuyến khích.
Mục tiêu của điều trị loét là giảm đau, chữa lành vết loét và ngăn ngừa biến chứng. Bước đầu tiên trong điều trị liên quan đến việc giảm các yếu tố nguy cơ đó là NSAID và thuốc lá. Bước tiếp theo là sử dụng các loại thuốc kháng sinh.
Nhiều người nhiễm khuẩn HP trong dạ dày mà không bao giờ bị đau hay loét. Không rõ liệu những bệnh nhân này có nên được điều trị bằng kháng sinh hay không. Cần nhiều nghiên cứu hơn để trả lời câu hỏi này.
Bệnh nhân bị bệnh loét được ghi nhận và nhiễm HP nên được điều trị cho cả loét và diệt khuẩn HP. Vi khuẩn HP có thể rất khó tiêu diệt hoàn toàn. Điều trị cần có sự kết hợp của nhiều loại kháng sinh, đôi khi kết hợp với thuốc ức chế bơm proton, thuốc chẹn H2 hoặc Pepto-Bismol .
Các loại kháng sinh thường được sử dụng là tetracycline , amoxicillin , metronidazole ( Flagyl ), clarithromycin ( Biaxin ) và levofloxacin ( Levaquin ). Diệt trừ H. pylori ngăn ngừa sự quay trở lại của vết loét (một vấn đề lớn với tất cả các lựa chọn điều trị viêm loét khác). Loại bỏ vi khuẩn này cũng có thể làm giảm nguy cơ phát triển ung thư dạ dày trong tương lai. Điều trị bằng kháng sinh có thể có tác dụng phụ như tiêu chảy và đôi khi là viêm đại tràng nặng….
Thuốc kháng axit trung hòa axit hiện có trong dạ dày. Các thuốc kháng axit như Maalox , Mylanta và Amphojel là phương pháp điều trị an toàn và hiệu quả. Tuy nhiên, tác dụng trung hòa của các tác nhân này là ngắn ngủi và cần dùng thuốc thường xuyên. Các thuốc kháng axit có chứa magiê, như Maalox và Mylanta, có thể gây tiêu chảy , trong khi các chất có chứa nhôm như Amphojel có thể gây táo bón. Vết loét thường xuyên tái phát trở lại khi ngưng sử dụng thuốc kháng axit.
Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng một loại protein được giải phóng trong dạ dày gọi là histamine kích thích tiết axit dạ dày. Thuốc đối kháng histamine (thuốc chẹn H2) là thuốc được thiết kế để ngăn chặn hoạt động của histamine trên tế bào dạ dày và làm giảm sản xuất axit. Ví dụ về thuốc H2 là cimetidine ( Tagamet ), ranitidine ( Zantac ), nizatidine ( Axid ) và famotidine ( Pepcid ). Trong khi thuốc chẹn H2 có hiệu quả trong việc chữa lành vết loét, chúng có vai trò hạn chế trong việc diệt trừ H. pylori mà không cần dùng kháng sinh. Do đó, vết loét thường xuyên quay trở lại khi ngừng H2.
Nói chung, thuốc chẹn H2 được dung nạp tốt và có ít tác dụng phụ ngay cả khi sử dụng lâu dài. Trong những trường hợp hiếm hoi, bệnh nhân báo cáo đau đầu , nhầm lẫn , thờ ơ hoặc ảo giác . Sử dụng mãn tính cimetidine có thể hiếm khi gây ra bất lực hoặc sưng vú . Cả cimetidine và ranitidine đều có thể cản trở khả năng xử lý rượu của cơ thể. Bệnh nhân dùng các loại thuốc này uống rượu có thể bị tăng nồng độ cồn trong máu. Những loại thuốc này cũng có thể can thiệp vào việc xử lý gan của các loại thuốc khác như phenytoin ( Dilantin ), warfarin ( Jantoven , Coumadin ), và theophylin . Theo dõi thường xuyên và điều chỉnh liều lượng của các loại thuốc này có thể cần thiết.
Thuốc ức chế bơm proton như omeprazole ( Prilosec ), lansoprazole ( Prevacid ), pantoprazole ( Protonix ), esomeprazole ( Nexium ) và rabeprazole ( Aciphex) mạnh hơn các thuốc chẹn H2 trong việc ức chế bài tiết axit. Các chất ức chế bơm proton khác nhau rất giống nhau việc hỗ trợ điều trị bệnh và không có bằng chứng cho thấy một loại nào có hiệu quả hơn loại kia trong việc chữa lành vết loét. Trong khi các thuốc ức chế bơm proton có thể so sánh với thuốc ức chế H2 về hiệu quả trong điều trị loét dạ dày và tá tràng, chúng vượt trội hơn so với thuốc ức chế H2 trong điều trị loét thực quản. Loét thực quản nhạy cảm hơn loét dạ dày và tá tràng với lượng axit nhỏ. Do đó, việc ức chế axit hoàn chỉnh hơn được thực hiện bằng thuốc ức chế bơm proton là rất quan trọng để chữa lành vết loét thực quản.
Thuốc ức chế bơm proton được dung nạp tốt. Tác dụng phụ phổ biến như đau đầu , tiêu chảy , táo bón , buồn nôn và phát ban . Điều thú vị là, thuốc ức chế bơm proton không có bất kỳ ảnh hưởng nào đến khả năng tiêu hóa và hấp thụ chất dinh dưỡng của người bệnh. Thuốc ức chế bơm proton cũng đã được các chuyên gia y tế hàng đầu cho là an toàn khi sử dụng lâu dài, không có ảnh hưởng xấu nghiêm trọng đến sức khỏe. Mặc dù chúng có thể thúc đẩy bệnh loãng xương và mức magiê thấp, cả hai tác dụng phụ này đều dễ dàng được điều trị.
Sucralfate ( Carafate ) và misoprostol ( Cytotec ) là những loại thuốc làm tăng cường niêm mạc ruột chống lại các cuộc tấn công của dịch vị có tính axit. Sucralfate bao phủ bề mặt vết loét và thúc đẩy quá trình lành thương.
Sucralfate có rất ít tác dụng phụ. Tác dụng phụ phổ biến nhất là táo bón và sự can thiệp với khả năng hấp thụ của các loại thuốc khác.
Misoprostol là một chất giống như prostaglandin thường được sử dụng để chống lại tác dụng gây loét của NSAID. Các nghiên cứu cho thấy misoprostol có thể bảo vệ dạ dày khỏi loét ở những người dùng NSAID mạn tính. Tiêu chảy là một tác dụng phụ phổ biến khi sử dụng loại thuốc này. Misoprostol có thể gây sảy thai vì vậy phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ nên tránh sử dụng.
Nguyên tắc điều trị viêm loét dạ dày là trị tổn thương niêm mạc dạ dày, giải quyết các triệu chứng bệnh và ngăn ngừa bệnh tái phát. Nắm bắt nguyên tắc này, các bác sĩ Phòng Chẩn trị YHCT Tâm Minh Đường đã nghiên cứu kết hợp 6 vị thảo dược hàng đầu bào chế nên Cao Bình Vị chữa bệnh viêm loét dạ dày tận gốc. Cụ thể:
Mỗi vị thảo dược có trong Cao Bình Vị có một chức năng riêng biệt, khi kết hợp cùng nhau cho ra bài thuốc điều trị viêm loét dạ dày hiệu quả nhất. Để đảm bảo chất lượng của thuốc cũng như sự an toàn cho người sử dụng, 100% dược liệu được sử dụng đều được lấy trực tiếp tại Vườn Dược liệu của Bộ Y tế, đạt tiêu chuẩn CO-CQ về hàm lượng dược tính và độ tinh khiết. Thêm vào đó, thuốc được bào chế ở dạng cao nguyên chất với nhiều ưu điểm trong điều trị có thể kể đến như:
Xem thêm đánh giá của BSCKII Hoàng Thị Lan Hương về bài thuốc Cao Bình Vị Tâm Minh Đường:
Với ưu điểm kể trên, bệnh viêm loét dạ dày sẽ được đẩy lùi sau 2-3 liệu trình sử dụng Cao Bình Vị. Lộ trình điều trị cụ thể như sau:
Hành trình thoát án 20 năm viêm loét dạ dày nhờ Cao Bình Vị của cô Hà Thị Bé:
Chú Trần Đắc Nông chữa trị thành công viêm loét dạ dày sau 10 năm nhờ bài thuốc 6 vị thảo dược Cao Bình Vị. Lắng nghe chia sẻ của chú trong video dưới đây:
Viêm loét dạ dày đang hành hạ bạn
Liên hệ ngay để nhận lộ trình điều trị từ chuyên gia
Viêm loét dạ dày là bệnh tiêu hóa phổ biến, ngày càng gia tăng. Vì thế mong rằng những thông tin trên giúp mỗi người hiểu hơn về căn bệnh này. Từ đó, mỗi người biết cách bảo vệ sức khỏe bản thân mình tốt hơn. Mong rằng chia sẻ này hữu ích giúp bạn phòng ngừa và điều trị hiệu quả nhất. Nếu cần tư vấn thêm thông tin, hãy bấm vào khung chat với bác sĩ để được hỗ trợ nhanh nhất!
Đáp ứng yêu cầu của độc giả, chúng tôi xin cung cấp địa chỉ nhà thuốc:
Không có bằng chứng nào kết luận rằng chế độ ăn kiêng và chế độ ăn hàng ngày đóng một vai trò trong việc chữa lành vết loét. Tuy nhiên, vì cà phê kích thích tiết axit dạ dày và rượu có thể gây viêm dạ dày. Dưới đây là một số lời khuyên hữu ích để giảm nguy cơ mắc bệnh:
Nếu bạn thực hiện đầy đủ những điều trên đây thì một phần giảm thiểu tuyệt đối nguy cơ mắc bệnh viêm loét dạ dày thêm vào đó sức khỏe của bạn cũng sẽ cải thiện rõ rệt.
Một số cách lựa chọn lối sống và thói quen sẽ có thể làm giảm nguy cơ phát triển của bệnh lý viêm loét dạ dày-tá tràng. Bao gồm:
Nguôồn tham khảo: https://indembassy.com.vn/viem-loet-da-day/
Bác sĩ Hồng Yến tên đầy đủ là Nguyễn Thị Hồng Yến sinh ngày 18/6/1969 tại Văn Bình, Thường Tín, Hà Nội. Tốt nghiệp Khoa Y học cổ truyền – Đại học Y Hà Nội (Lớp P35 E3) năm 1993, nguyên là Giảng viên chính, bác sĩ YHCT tại Học viện Y dược học cổ truyền.